Nâng cao năng lực ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại tại thị trường châu Á, châu Phi và châu Đại Dương
Ngày 16/9, tại Bình Dương, Bộ Công Thương tổ chức Hội thảo Thúc đẩy tiềm năng xuất khẩu và nâng cao năng lực ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại tại thị trường châu Á, châu Phi và châu Đại Dương.
Hội thảo do Thứ trưởng Bộ Công Thương Phan Thị Thắng cùng Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bình Dương đồng chủ trì. Cùng tham dự Hội thảo có hơn 200 đại biểu là lãnh đạo UBND tỉnh Bình Dương, lãnh đạo Sở Công Thương các tỉnh, thành: Bình Dương, TP.Hồ Chí Minh, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang; các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu, thương mại…
Việt Nam đặc biệt chú trọng tăng cường hợp tác kinh tế với khu vực châu Á, châu Phi và châu Đại Dương
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Phan Thị Thắng cho biết, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng mang tính thời đại. Nhận thức đầy đủ, đúng đắn xu hướng đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán 19 hiệp định thương mại tự do (FTA). Việt Nam là một trong những quốc gia có độ mở lớn nhất và đã ký kết nhiều FTA nhất trên thế giới. Trong các thị trường xuất khẩu, khu vực châu Á – châu Phi và châu Đại Dương luôn là thị trường quan trọng của Việt Nam. Trong đó, có thể điểm tên những đối tác quen thuộc của Việt Nam như: Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Singapore, Australia…
Trong các thị trường xuất khẩu, khu vực châu Á – châu Phi và châu Đại Dương luôn là thị trường quan trọng của Việt Nam. Trong đó có thể điểm tên những đối tác quen thuộc của Việt Nam như: Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Singapore, Australia…
Những năm qua, Việt Nam đặc biệt chú trọng vào việc tăng cường hợp tác kinh tế với các quốc gia trong khu vực châu Á, châu Phi và châu Đại Dương nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tại khu vực tiềm năng này.
Cụ thể, Việt Nam đã tận dụng các cơ hội hợp tác từ các FTAs song phương với các đối tác riêng lẻ như Việt Nam – Nhật Bản, Việt Nam – Hàn Quốc, cũng như các FTAs đa phương thông qua các tổ chức khu vực như ASEAN hay Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lũy kế 6 tháng đầu năm, tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước đạt khoảng 370 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2023. Trị giá xuất khẩu đạt khoảng 190 tỷ USD, tăng gần 15% so với cùng kỳ năm 2023. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và khu vực châu Á – châu Phi đạt khoảng 250 tỷ đô tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2023, chiếm gần 67% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới.
Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam đến khu vực châu Á đạt gần 89 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2023; khu vực châu Đại Dương và châu Phi lần lượt đóng góp gần 3,5 tỷ USD và 1,5 tỷ USD, tăng khoảng 27% và 6% so với cùng kỳ năm 2023.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang châu Á có thể kể tới như: Điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện, điện tử, nông sản, vật liệu xây dựng (sắt thép, gạch ốp lát, xi măng), các sản phẩm gỗ, hóa chất, dệt may…; mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang châu Đại Dương như: Thủy hải sản đã qua chế biến, hạt điều, sắt thép, các sản phẩm gỗ…; mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang châu Phi chủ yếu là: Gạo, điện thoại các loại và linh kiện, cà phê, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, phương tiện vận tải và phụ tùng, hàng dệt may…
Việc bảo hộ quá mức cần thiết gây nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Tuy nhiên, việc đẩy mạnh mở rộng xuất khẩu tại châu Á, châu Phi và châu Đại Dương cũng là thách thức đối với nền kinh tế của Việt Nam. Mặc dù thời gian qua, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các thị trường này có nhiều khởi sắc và dư địa mở rộng thị trường còn rất lớn, song cũng tồn tại những khó khăn, hạn chế không nhỏ chờ đón doanh nghiệp.
Thứ trưởng Phan Thị Thắng cho rằng, một trong những thách thức lớn nhất là quan điểm bảo hộ, tạo ra các rào cản của các nước, vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Bên cạnh mặt tích cực của tự do hóa thương mại và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn tồn tại các hoạt động đơn phương, trừng phạt, đối trọng, tạo sự kiềm chế… trong chính trị, kinh tế thương mại và các hoạt động này có xu hướng ngày càng trở nên phổ biến. Các nước từ việc tận dụng tinh thần tốt đẹp của WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) để tạo ra cạnh tranh công bằng giữa hàng hóa nhập khẩu và sản xuất trong nước, thì đã có xu hướng chuyển sang bảo hộ và hạn chế nhập khẩu từ nước ngoài, thậm chí là bảo hộ quá mức cần thiết.
Trong số các biện pháp bảo hộ đó, phòng vệ thương mại nổi lên là một trong các công cụ hợp pháp, hữu hiệu và được nhiều thành viên WTO sử dụng. Do xuất khẩu nhiều sang thị trường Á, châu Phi và châu Đại Dương, Việt Nam phải đối mặt với các vụ việc về phòng vệ thương mại tại các thị trường này.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, có tới 14/24 nước thuộc nhóm thị trường châu Á, châu Phi và châu Đại dương đã điều tra 138/256 vụ việc phòng vệ thương mại khác nhau đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Các nước điều tra nhiều nhất là Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Australia, Indonesia, Philippines … Chỉ riêng trong ASEAN, 4 nước Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan đã điều tra tới 48 vụ việc phòng vệ thương mại với hàng hóa của ta. Còn tại châu Đại Dương, Australia cũng đã điều tra 18 vụ việc với Việt Nam.
“Thông qua Hội thảo sẽ giúp chúng ta hiểu rõ và chia sẻ nhiều hơn trách nhiệm trong việc hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của các biện pháp phòng vệ thương mại, biện pháp hạn chế nhập khẩu với hàng hóa của ta. Qua đó, chúng ta có quyền kỳ vọng sự phát triển và tăng trưởng bền vững của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai.” – Thứ trưởng Phan Thị Thắng kỳ vọng.
Tại hội thảo các diễn giả các đến từ các đơn vị thuộc Bộ Công Thương đã cập nhật, trao đổi thông tin về tình hình thị trường, cơ hội và thách thức thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng tiềm năng sang thị trường châu Á, châu Phi và châu Đại Dương; tình hình điều tra, áp dụng và ứng phó các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước; kinh nghiệm phối hợp, ứng phó các biện pháp phòng vệ thương mại từ các thị trường này.
Theo đó, các chuyên gia cho rằng, việc tạo năng lực ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại là vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp của Việt Nam để chủ động vận dụng và ứng phó kịp thời với các vụ việc về phòng vệ thương mại, nhằm bảo vệ hợp lý các nhà sản xuất hàng Việt xuất khẩu.
Thời gian tới, Bộ Công Thương cho biết, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác cảnh báo sớm các vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp trong việc ứng phó các vụ việc phòng vệ thương mại do nước ngoài đã và đang điều tra.
Về phía doanh nghiệp cũng nên chủ động tìm hiểu và nâng cao nhận thức, kỹ năng về việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Mặt khác, cần sử dụng hiệu quả các công cụ cảnh báo sớm và phối hợp đối tác ở nước ngoài để theo dõi sát tình hình.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần tăng cường phối hợp các cơ quan quản lý nhà nước và dành nguồn lực phù hợp cho việc ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại.