Bế tắc đàm phán giá các dự án điện khí LNG
EVN nhận được hồ sơ để thực hiện đàm phán hợp đồng mua bán điện 4 dự án, nhưng vẫn “tắc” giá mua điện.
Chưa thống nhất được giá mua điện
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vừa có văn bản gửi Thủ tướng nêu lên một số vướng mắc trong quá trình triển khai các dự án điện khí LNG tại Quy hoạch Điện VIII.
Theo Quy hoạch Điện VIII, tổng công suất các nguồn điện LNG dự kiến triển khai đến năm 2030 là 22.500 MW (13 dự án) có thể xem xét một số vị trí tiềm năng, dự phòng phát triển khác.
Đến nay, EVN đã nhận được hồ sơ để thực hiện đàm phán Hợp đồng mua bán điện (PPA) của các dự án Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4, Hiệp Phước, Bạc Liêu.
Trong đó mới chỉ có PPA dự án Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 với chủ đầu tư là Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam đã thực hiện đàm phán theo mẫu PPA được quy định theo Thông tư số 57 của Bộ Công thương.
“Các bên thống nhất cơ bản các nội dung liên quan tại PPA, trừ nội dung giá điện của dự án vẫn đang trong quá trình đàm phán”, EVN cho hay.
Tại văn bản này, EVN liệt kê loạt các vướng mắc chính trong việc triển khai các dự án hiện nay.
Theo đó, trong quá trình đàm phán PPA, các chủ đầu tư dự án điện khí LNG luôn đề nghị EVN thống nhất tỷ lệ điện năng qua hợp đồng mua bán điện dài hạn ở mức từ 72-90% trong toàn bộ thời hạn hợp đồng.
EVN cho rằng việc chấp thuận điều kiện này sẽ gây rủi ro phát sinh tăng giá điện và không công bằng với các loại hình nhà máy điện khác tham gia thị trường điện.
EVN dẫn chứng giá LNG nhập khẩu về đến cảng của Việt Nam hiện ở mức 12-14 USD/triệu BTU, tương ứng giá thành phát điện LNG sẽ ở mức 2.400-2.800 đồng/kWh, cao hơn nhiều so với giá thành phát điện của các loại hình nguồn điện hiện hữu khác trong hệ thống.
Dự kiến đến năm 2030, tổng công suất các nguồn điện LNG chiếm khoảng 15% tổng công suất nguồn điện quốc gia.
“Với giá thành phát điện cao, độ biến động lớn cùng yêu cầu cam kết sản lượng dài hạn như trên, chi phí mua điện đầu vào của EVN sẽ bị ảnh hưởng lớn, tác động mạnh đến giá bán lẻ điện đầu ra khi các nguồn điện LNG này vào vận hành”, EVN lo ngại.
Từ các phân tích nêu trên, để đảm bảo khả năng thu xếp tài chính cho các dự án điện khí LNG, đảm bảo khả năng cung ứng điện cho giai đoạn sau năm 2028, EVN kiến nghị tỷ lệ điện năng cam kết trong hợp đồng sẽ là 65%.
Nhiều kiến nghị vượt thẩm quyền EVN
Bên cạnh yêu cầu về cam kết tỷ lệ điện năng qua hợp đồng dài hạn của các dự án, trong quá trình đàm phán PPA, EVN cũng thường xuyên nhận được các đề nghị “hóc búa” của các chủ đầu tư dự án điện khí LNG.
Đó là chủ đầu tư đề nghị về Luật áp dụng của PPA là Luật nước thứ ba (thường là Luật Anh), xử lý tranh chấp tại trọng tài nước ngoài.
Về vấn đề này, căn cứ các quy định tại Luật Đầu tư cũng như Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư trong đó yêu cầu Luật áp dụng là Luật Việt Nam, xử lý tranh chấp tại Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, vì vậy trong quá trình đàm phán, EVN không thể chấp thuận các kiến nghị nêu trên của các chủ đầu tư dự án.
Chủ đầu tư cũng đề nghị có quy định về việc Chính phủ bảo đảm khả năng chuyển đổi ngoại tệ, do doanh thu từ dự án là đồng Việt Nam nhưng các doanh nghiệp dự án phải chuyển đổi sang ngoại tệ để thanh toán vốn vay, tiền nhiên liệu hàng tháng.
Các nhà đầu tư cũng yêu cầu về cơ chế bồi thường do thay đổi Luật, cơ chế chấm dứt và thanh toán chấm dứt, quyền của bên cho vay đối với dự án…
EVN đánh giá: “Các yêu cầu nêu trên cũng xuất phát từ tiền lệ các hợp đồng BOT của các dự án điện trước đây, không phải là các điều khoản thuộc PPA và nằm ngoài thẩm quyền quyết định của EVN”,
Với những vướng mắc trên, EVN đề nghị Thủ tướng xem xét, quyết định tỷ lệ điện năng qua hợp đồng dài hạn và chấp thuận về việc giá LNG nhập khẩu cùng các chi phí liên quan (tồn trữ, tái hóa, vận chuyển…) được chuyển ngang sang giá điện; coi chi phí mua điện từ các dự án điện khí LNG là các chi phí hợp lý, hợp lệ và được tính toán điều chỉnh trong giá bán lẻ điện.
EVN cũng muốn nhận được ý kiến và quyết định đối với kiến nghị của các chủ đầu tư đối với các chính sách bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ, cơ chế bồi thường dự án do thay đổi luật như đã nêu trên.